Lịch sử nghiên cứu trí nhớ con người / tìm hiểu về trí nhớ

The study of human memory.

Trí nhớ con người đã được nghiên cứu cách đây 2000 năm kể từ khi Aristotle cố găng tìm hiểu về trí nhớ trong luận thuyết "on the Soul " của Aistotle. Theo luận thuyết này thì trí nhơ của con người được ông so sách với một cái bảng đen trống không, và như vậy từ khi con người sinh ra tất cả hiểu biết của con người đều không có gì mà những hiểu biết sau đó được con người học hỏi và trở thành kinh nghiệm.

Trong thời cổ đại trí nhớ được chia làm 2 loại. Một là trí nhớ tự nhiên có nghĩa là từ khi sinh ra chúng ta đã sử dụng chúng hàng ngày. Hai là bộ nhớ nhân tạo được hình thành qua quá trình làm việc học tập và tích lũy kinh nghiệm. Những nhà tu từ học của Roma như Cicero and Quintillian đã cường điệu lên thành nghệ thuật của trí nhớ hay phương pháp đểm quĩ tích. Và ý tưởng của họ được truyền lại triết học thời trung cổ và những học giả của thời ký phục hưng như Matteo Ricci and Giordano Bruno

Vào thế kỷ 18 nhà triết học người anh David Harley là người đầu tiên đưa ra giả thiết rằng ký ức được mã hóa thông qua sự chuyển động ẩn của hệ thần kinh dù vậy lý thuyết này vẫn còn rất thô sơ.  William James ở America và Wilhelm Wundt ở Germany cả hai được coi là những người sáng lập ra tâm lý học hiện đại, cả hai đều thực hiện một số nghiên cứu cơ bản về chức năng bộ nhơ con người vào các năm 1870s and 1880s. Vào năm 1981, Théodule-Armand Ribot đề xuất luận điểm được gọi là Luật Ribot, và nói rằng mất trí nhớ có một thời gian gradient trong đó ký ức gần đây có nhiều khả năng bị mất hơn những kỷ niệm xa hơn (mặc dù trong thực tế điều này thực sự không luôn luôn như vậy ). Có nghĩa là ký ức ngắn hạn sẽ bị mất đi nhanh hơn ký ức dài hạn, Đại ý là như vậy.

Tuy nhiên, phải đến giữa những năm 1880 các nhà triết học trẻ người Đức Herman Ebbinghaus phát triển các phương pháp tiếp cận khoa học đầu tiên nghiên cứu bộ nhớ. Ông đã thử nghiệm bằng cách sử dụng danh sách các âm tiết vô nghĩa, và sau đó kết hợp chúng với những từ ngữ có ý nghĩa, và một số phát hiện của mình từ công việc này (như các khái niệm về đường cong học tập   đường cong quên, phân loại của mình trong ba loại khác nhau của bộ nhớ: cảm giác , ngắn hạn và dài hạn) vẫn có liên quan cho đến ngày nay.

Nhà sinh vật học tiến hóa người Đức Richard Semon đầu tiên đề xuất  ý kiến cho rằng kinh nghiệm để lại một dấu vết vật lý vào năm 1904, mà ông gọi là một vết lằn, trên mạng nhện cụ thể của tế bào thần kinh trong não. Nhà tâm lý học người Anh Sir Frederick Bartlett được coi là một trong những người sáng lập của tâm lý học nhận thứ.

Với những tiến bộ về kỹ thuật, công nghệ  năm 1940, đặc biệt là trong lĩnh vực neuropsychology ( Môn nghiên cứu về thái độ, cảm xúc, hành vi,cảm xúc, nhận thức, chức năng não bộ và những chức năng khác )  cùng với nó là cơ sở sinh lý học cho lý thuyết mã hóa.Karl Lashley đã dành 25 năm nghiên cứu về chuột trong mê cung của nó.Ông đã nỗ lực hệ thống hóa để xác địch nơi dấu vết bộ nhớ được nghi lại hoặc những nếp nhăn hay những dấu mà ký ức được in dấu trong não.Chỉ đến năm 1950 mới xác định được trí nhớ không lưu lại ở một bộ phận bất kỳ nào trên vỏ não mà được phân bố rộng khắp trên vỏ não. Và nếu một bộ phận bị hư hỏng thì những bộ phận khác trên vỏ não sẽ thực hiện chức năng ghi nhớ đó.

Giải phẫu thần kinh người Canada làm việc tại Wilder Penfield về sự kích thích của não với các đầu dò điện trong năm 1940 và 1950, ban đầu trong việc tìm kiếm nguyên nhân của bệnh động kinh, cho phép ông để tạo ra bản đồ của vỏ não cảm giác và vận động của não bộ vẫn còn được sử dụng ngày hôm nay, thực tế không thay đổi gì. 

Unknown

Phasellus facilisis convallis metus, ut imperdiet augue auctor nec. Duis at velit id augue lobortis porta. Sed varius, enim accumsan aliquam tincidunt, tortor urna vulputate quam, eget finibus urna est in augue.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét